7 biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết – Bệnh sốt xuất huyết là một căn bệnh rất phổ biến trong xã hội ngày nay.
Sốt xuất huyết là một căn bệnh nguy hiểm khi bệnh nhân không được điều trị cũng như phát hiện bệnh kịp thời, nó có thể gây nhiều ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cũng như tính mạng của người bệnh.
Vậy những biến chứng nào có nguy cơ sẽ xảy ra đối với người bệnh? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau nhé!
7 biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết
Sốc
Sốc là một biến chứng thường thấy của bệnh nhân mắc bệnh sốt xuất huyết. Sốc xảy ra chủ yếu do tăng tính thấm mao quản, thoát huyết tương, cô máu và hụt thể tích lưu hành.
Sốc là một biểu hiện của một rối loạn đặc thù của bệnh Sốt xuất huyết và xảy ra tương đối nhiều, chính vì vậy đây được xem là một thể bệnh của dengue.
Sốc có thể do một xuất huyết phủ tạng ồ ạt xảy ra tiên phát rồi dẫn đến sốc, trường hợp này là một sốc mất máu với hematocrít thấp; một số ít trường hợp do sốt cao dài ngày, vã mồ hôi, nôn nhiều nhưng không được bổ sung dịch thế nên cũng vào sốc nhẹ.
Hôn mê
Hôn mê là một dấu hiệu của hội chứng não cấp xảy ra chủ yếu do não bị phù nề, xung huyết, xuất huyết đốm do tăng tính thấm mao quản, thoát dịch, rối loạn vi tuần hoàn ở não. Loại hội chứng não cấp tiên phát này được coi là thể não của Sốt xuất huyết.
Ngoài ra có một số trường hợp xuất hiện hôn mê thứ phát sau sốc, sau xuất huyết phủ tạng ồ ạt, sau ĐMRRNM, sau suy gan thận cấp, … trong trường hợp này là hội chứng não cấp thứ phát, được coi là biến chứng.
Xuất huyết phủ tạng
Có hai loại xuất huyết phủ tạng thường gặp ở bệnh nhân sốt xuất huyết. Loại xuất huyết phủ tạng xảy ra từ 1-2 ngày đầu thường do chủ yếu yếu tố thành mạch ròn và yếu tố tiểu cầu giảm; loại này thường diễn biến không nặng, dễ khỏi, được coi là thể bệnh, là triệu chứng bệnh.
Loại xuất huyết phủ tạng thứ hai xảy ra trên bệnh nhân bệnh sốt xuất huyết với thời gian muộn hơn sau sốc do đông máu rải rác nội mạch gây ra, loại này được coi là biến chứng.
Biến chứng ở phổi
- Tràn dịch màng phổi
Tràn dịch phổ là một biến chứng tướng đối phổ biến ở bệnh nhân mắc sốt xuất huyết là trẻ em, biến chứng này phổ biến hớn cả các tình trạng khác như hôn mê, viêm cơ tim, viêm phổi, chỉ đứng sau sốc và xuất huyết tiêu hoá.
Thậm chí có ý kiến nhấn mạnh 4 biến chứng của Sốt xuất huyết ở bệnh nhi: truỵ tim mạch, xuất huyết nặng, tràn dịch màng phổi, hội chứng não cấp (hôn mê).
Ở bệnh nhân người lớn, trong 154 bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng, chỉ có 2 tràn dịch màng phổi và 3 viêm phế quản phổi (Nguyễn Thiện Thìn 1978).
Tràn dịch màng phổi ở Sốt xuất huyết thực ra không coi là biến chứng, mà là diễn biến thoát huyết tương của bệnh vào khoang thanh mạc, diễn biến thường nhẹ, theo cùng với bệnh, thường tự rút khi khỏi bệnh, không cần can thiệp hút tháo dịch, nhưng phần nào có ảnh hưởng tới hô hấp và tăng gánh cho tim.
- Ngưng thở
Ngưng thở là nguyên nhân gây nên tử vong hàng đầu ở bệnh nhân mắc bệnh sốt xuất huyết. Và ngưng thở là nguyên nhân gây tử vong thể não thường thấy nhất vì não lúc này bị xung huyết, xuất huyết, phù não quá nặng, hoặc do có đốm xuất huyết ở hành tủy, cầu não.
Bệnh viện B đã gặp 5 trường hợp thể não trong đó 4 tử vong vì ngừng thở, khi giải phẫu thi thể thấy xuất huyết ở não, tiểu não và hành tủy. Thở không đều, rồi chậm dần là triệu chứng đe doạ ngừng thở.
- Phù phổi cấp
Phù phổi cấp là biến chứng hiếm, có thể xảy ra sớm trong tuần lễ đầu do thoát nhiều huyết tương vào phế nang (khu vực tiểu tuần hoàn), trong khi đó sức bóp của tim trái bị giảm sút (vì phù kẽ tim, xuất huyết cơ tim, suy vành, thiểu dưỡng cơ tim…)
Phù phổi cấp cũng có thể xảy ra do việc bổ sung dịch thể để điều trị sốc quá nhiều, quá nhanh, không theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm; phù phổi cấp còn có thể là một biến chứng muộn
Xảy ra sau khi đã cứu bệnh nhân thoát sốc, do quá trình tái.hấp thu huyết tương từ gian bào trở lại lòng mạch làm tăng khối lượng lưu hành, lúc này huyết áp đã về bình thường, mạch đã rõ, nhưng hematocrit vẫn tiếp tục tụt là một dấu hiệu cần cảnh giác với quá trình tái hấp thu.
Biến chứng ở tim
Tim trong Sốt xuất huyết (nhất là trong sốc dengue) có thể có những rối loạn tổn thương sau:
- Phù nề khe tim, xung huyết và xuất huyết đốm cơ tim và màng tim do tăng tính thấm mao quản và thoát huyết tương.
- Suy vành do hụt lưu lượng vành, thiểu dưỡng cơ tim.
- Tràn dịch màng tim do thoát dịch thấm.
- Tàng gánh cơ tim do tràn dịch màng phổi v.v…
Những rối loạn và tổn thương trên tuy không nhiều, nhưng có thể gây ra những biến chứng như loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền, rối loạn tái cực, suy yếu cơ tim, phù phổi cấp, ngừng tim, v.v…
Biến đổi điện tim gặp nhiều ở sốc dengue so với Sốt xuất huyết không sốc, thường xuất hiện vào giai đoạn toàn phát của bệnh, diễn biến không kéo dài và phục hồi hoàn toàn sau khi hết sốc.
Biến chứng ở thận
Trong Sốt xuất huyết bệnh nhân hay có protein niệu tạm thời; một số bệnh nhân nặng, nhất là sốc dengue thường có đạm huyết cao.
Trong thời kỳ sốt cao phổ biến là thiểu niệu do sốt cao, vã mồ hôi, nôn, nên mất nước. biến chứng suy thận cấp với thiểu niệu, vô niệu nặng đã được thông báo ở Bệnh viện 5-8 (2 ca/123) và ở Bệnh viện Việt nam – Cuba (2 ca/150). Bệnh nhân sốc dengue kéo dài dễ bị suy thận cấp thực thể.
Biến chứng ở thận trọng sốc dengue do nhiều nguyên nhân từ nhẹ đến nặng:
- Do mất nước và điện giải: trường hợp này diễn biến nhẹ và tạm thời, chỉ cần truyền ít dịch cũng đủ.
- Do thoát huyết ra ngoài lòng mạch, máu cô, lưu lượng tuần hoàn giảm ở cầu thận, hoặc do rối loạn VI tuần hoàn ở thận gây phù nề kẽ thận, xung huyết, đốm xuất huyết và hoại tử nhu mô thận. Trường hợp suy thận cấp này diễn biến nặng hơn loại trên.
- Một số trường .hợp xuất huyết phủ tạng nặng, hoặc tan huyết dữ dội đái ra huyết cầu tố dễ có biến chứng hoại tử ống thận do thiếu máu thiếu oxy.
Những trường hợp sốc dengue kéo dài cũng dễ dẫn tới suy thận, do đông máu rải rác nội mạch phát triển.
Về tổn thương giải phẫu bệnh lý ở thận của bệnh nhân Sốt xuất huyết người lớn, GS Nguyên Như Bằng có nhận xét: đại thể vỏ dễ bóc, tổ chức cơ bản xung huyết màu đỏ sẩm, đa số có xuất huyết đốm ở bể và đài thận; vi thể cầu thận và tổ chức kẽ xung huyết nặng, các huyết quản giãn chứa nhiều hồng cầu, chảy máu rải rác chủ yếu ở tổ chức kẽ (Nguyễn Như Bằng 1970).
Trên 54 bệnh nhân tử vong ở Bệnh viện B, Bs Bá nhân mạnh tổn thương ống thận: các ống thận bị nước phù tách xa nhau, tế bào ống hầu hết không còn nhân, tổ chức rời rạc, hoại tử nước (Đình Tuân Bá, 1970).
Giáo sư Vũ Công Hoè nhận thấy giống như ở sốc nhiễm khuẩn: phù kẽ, ống thận bị chèn ép, cách xa nhau, thường thoái hoá nước, có khi chảy máu hoại tử, trong tổ chức kẽ có nhiều huyết quản bị giãn, chứa huyết khối nhỏ (Vũ Công Hoè 1970).
Một số loại biến chứng nguy hiểm khác
Tràn dịch màng bụng: chủ yếu gặp ở bệnh nhi, diễn biến nhẹ, lâm thời, thường tự rút khi bệnh khỏi, cùng một cơ chế với tràn dịch màng phổi màng tim; Bệnh viện B đã gặp 12 trường hợp cổ chướng tự do và mất nhanh sau 5-6 ngày.
Phù thiểu dưỡng: ở bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng, protein máu thường giảm, Bệnh viện B gặp 1 trường hợp phù thiếu đạm với protein máu 4,3%; Khoa truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai thăm dò ở 5 bệnh nhân sốc thấy tất cả đều có protein thấp xung quanh 4g%.
Liệt hai chi dưới và rối loạn cơ vòng: bệnh viện 113 thông báo 1 trường hợp Sốt xuất huyết bị liệt 2 chi dưới, bí đái và tử vong, nhiều khả năng do xuất huyết tủy (BV. 113, Quy Nhơn, 1975).
Tình trạng tủy xương bị xung huyết, đôi khi có những đốm xuất huyết hoặc những ổ xuất huyết nhỏ (Gs Vũ Công Hoè, 1970). Gần đây, y văn có nhắc tới những biến chứng viêm rễ cây thần kinh sau Sốt xuất huyết (D.J. Gubler và cs., 1977).
Suy tủy: đội điều trị 201 đã phát hiện 1 trường hợp Sốt xuất huyết có triệu chứng suy tủy khi chọc tủy và làm tủy đồ vào ngày thứ 10 của bệnh, bệnh nhân tử vong ngày 12 của bệnh.
Trên 15 bệnh nhi tử vong đã được nghiên cứu về tổn thương tủy xương ở BV. B, bác sĩ Phạm Ngọc Trọng (1970) phân làm hai loại: một loại tủy xương bị xơ hoá rõ rệt, rất ít tế bào hoặc không còn tế bào trong tủy xương, một loại tuy số tế bào trong tủy xương không ít nhưng có hiện tượng thiểu sản đối với các loại tế bào tủy;
Tác giả nhận thấy sự bất tương xứng giữa máu ngoại vi và tủy xương và đề cập tới khả năng tủy bị suy một cách cấp tính.
Viêm tinh hoàn: Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba gặp một trường hợp Sốt xuất huyết bị biến chứng viêm tinh hoàn vào đợt sốt lại, sau khi đã khỏi sốt được 3 hôm tinh hoàn sưng đau nhức và rắn. Theo dõi bệnh dengue hải quân Mỹ khu vực Thái Bình Dương trong đại chiến II VVegrauch và Gass nêu tỷ lệ teo tinh hoàn là 5,7%.
Xảy thai, sinh non: phụ nữ có thai 3 tháng đầu dễ bị xảy; 3 tháng cuối dễ bị đẻ non và thai có thể chết; mẹ có thể bị sốc, xuất huyết tử cung; có trường hợp thai nhi trên 5 tháng bị chết với nhiều đám xuất huyết trên da đầu, và các tổn thương phủ tạng giống hệt ở thi thể người lớn chết vì Sốt xuất huyết (Nguyễn Thượng Liễn, 1970).
Sốt xuất huyết được xem là một dịch bệnh rất nguy hiểm đối với người mắc bệnh vì chúng có thể gây nên những biến chứng có tác động khôn lường đến tình trạng sức khỏe cũng như tính mạng của bệnh nhân.
Chính vì vậy khi những người thân trong gia đình có biểu hiện mắc phải căn bệnh nhày cần phải tiến hành điều trị kịp thời, tốt hơn hết là đưa người bệnh đến ngay cơ sở y tế để được điều trị bệnh một cách tốt nhất.